Chúng tôi mô tả một loài rắn sói mới thuộc chi Lycodon Fitzinger dựa trên tám mẫu vật được thu thập từ Khu tự trị Tây Tạng ở tây nam Trung Quốc và vùng Sagaing ở miền bắc Myanmar (Burma). Loài mới, Lycodon latifasciatus sp. nov., trước đây bị nhầm lẫn với Lycodon fasciatus Anderson và Lycodon gongshan Vogel & Luo, nhưng khác biệt với từng loài này ở kiểu màu lưng gồm các vạch ngang rộng màu nâu đậm và cam, cùng số lượng vảy dưới đuôi cao hơn (90–96)_tThS. Nguyễn Văn Tân (Đại học Duy Tân, đồng tác giả chịu trách nhiệm chính của dự án này)
Phân tích phát sinh loài dựa trên trình tự DNA ty thể và nhân (16s ribosomal RNA, cytochrome b, và gen kích hoạt tái tổ hợp 1) xác nhận Lycodon latifasciatus sp. nov. là một nhóm ngoại (outgroup) được hỗ trợ mạnh mẽ so với một nhánh chứa năm loài: Lycodon fasciatus, Lycodon gongshan, Lycodon butleri Boulenger, L. cavernicolus Grismer, Quah, Anuar, Muin, Wood & Nor, và L. sidiki Wostl, Hamidy, Kurniawan & Smith. Loài này được phân biệt với tất cả các thành viên của nhánh đó nhờ khoảng cách di truyền không hiệu chỉnh dao động từ 6,65–12,94% (dựa trên trình tự cytochrome b) và không có sự chia sẻ haplotype dựa trên trình tự DNA nhân (gen kích hoạt tái tổ hợp 1). Ngoài ra, chúng tôi cung cấp mô tả lại L. gongshan với dữ liệu phân tử và hình thái mới, bao gồm xác nhận các ghi nhận gần đây từ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc và một ghi nhận mới từ bang Kachin, Myanmar.
Hình: Cây phát sinh loài cực đại hợp lý (Maximum-likelihood, ML) của chi Lycodon được suy luận từ hai gen ty thể (16S rRNA, CytB) và một gen nhân (Rag1); (A) phiên bản thu nhỏ của cây phát sinh loài ML, với (B) hiển thị phiên bản cắt tỉa của cùng một cây để thể hiện mối quan hệ trong nhóm Lycodon fasciatus, và (C) hiển thị mạng lưới haplotype dựa trên các trình tự Rag1 đã được pha. Các số giữa các nút biểu thị giá trị Bootstrap siêu nhanh (Ultrafast Bootstrap, UF BS), kiểm định xấp xỉ tỉ số khả năng Shimodaira–Hasegawa (SH-aLRT), và xác suất hậu nghiệm Bayes (Bayesian posterior probability, BI PP), theo thứ tự tương ứng. Các nút được tô màu đen biểu thị sự hỗ trợ mạnh từ cả hai phương pháp phân tích, trong khi các nút được tô màu trắng biểu thị sự hỗ trợ mạnh chỉ từ một trong các phân tích ML (hoặc SH-aLRT hoặc UF BS). Ảnh chèn của Lycodon latifasciatus được chụp bởi N. A. Poyarkov.
Trong những năm qua, rõ ràng rằng tính đa dạng phân loại trong chi Lycodon vẫn chưa được đánh giá đầy đủ, và nhiều nhóm loài chứa các quần thể bị giới hạn về mặt địa lý, có thể đại diện cho các loài mới (Wang et al., 2021; Nguyen et al., 2022; Nguyen và Vogel, 2025). Dữ liệu sinh học phân tử của chúng tôi cho thấy rằng các quần thể Lycodon “fasciatus” ở miền Trung Việt Nam có thể đại diện cho một loài như vậy, vì hai mẫu mà chúng tôi có trong tay tạo thành một nhánh phân kỳ sâu, được xác định là nhóm chị em với L. ruhstrati và có một số khác biệt tinh tế về kiểu màu so với L. fasciatus sensu stricto. Giống như các chi bò sát đa dạng khác được tìm thấy ở vùng nhiệt đới châu Á, số lượng loài Lycodon dự kiến sẽ tiếp tục gia tăng.
Hình: Phạm vi phân bố của Lycodon latifasciatus sp. nov., L. fasciatus, và L. gongshan. Lưu ý: Các con số biểu thị các địa điểm khác nhau nơi các loài này đã được ghi nhận.
Nguồn tham khảo:
Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Tân
Người duyệt bài: TS Phan Quốc Toản
Người đăng bài: ThS. Nguyễn Văn Tân