Dựa trên nghiên cứu tích hợp (dữ liệu hình thái, sinh học phân tử) các nhà khoa học đến từ Việt Nam, Mỹ, Bỉ, Nga, Pháp và Đức vừa đánh giá lại phân loại học và danh pháp của nhóm loài Lycodon subcinctus phức tạp trước đây được báo cáo phân bố rộng rãi từ khu vực miền Nam Trung Quốc, miền Bắc Myanmar xuống tận bán đảo Lesser Sunda. Kết quả nghiên cứu được đăng trên tạp chí Zootaxa 5519 (4): 487–537.
Hình 1. Rắn khuyết khoanh Đông dương, loài rắn mới được mô tả, phân bố rộng ở Trung Quốc, Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam
Theo Ths. Nguyễn Văn Tân (Đại học Duy Tân), chịu trách nhiệm chính của dự án này, loài Rắn khuyết khoanh Mã Lai, Lycodon subcinctus (F. Boie, 1827) có lịch sử phân loại và danh pháp phức tạp.
Hình 2. Biến thể hình thái của loài Rắn khuyết khoanh Đông dương, loài rắn mới được mô tả, phân bố rộng ở Trung Quốc, Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam (©Nguyen et al 2024. Zootaxa, 5519 (4): 487–537)
Trong gần một thế kỷ, tên gọi Anoplophallus maculatus Cope, 1895 đã được áp dụng cho các quần thể L. subcinctus từ miền nam Trung Quốc, với nhiều tác giả công nhận taxon maculatus là một phân loài (tức là Lycodon subcinctus maculatus) hoặc từ đồng nghĩa thứ cấp của L. subcinctus. Một nghiên cứu gần đây đề xuất nâng cấp L. subcinctus ở Trung Quốc lên cấp độ loài (như là Lycodon “maculatus”) đã thúc đẩy chúng tôi điều tra lại một số vấn đề về danh pháp liên quan đến Anoplophallus maculatus mà chưa được giải quyết đầy đủ trong tài liệu từ trước đến nay.
Chúng tôi chỉ ra rằng Anoplophallus maculatus trước đây không được mô tả là một loài mới, và thực tế là đề cập đến Megalops maculatus Hallowell, 1861, một loài rắn khu vực Tân nhiệt đới hiện được gọi là Leptodeira maculata (Dipsadinae). Do đó, các quần thể L. subcinctus gần đây được công nhận là Lycodon “maculatus”, không có tên gọi hợp lệ nào được áp dụng cho chúng.
Hình 3. Biến thể hình thái của loài Rắn khuyết khoanh Mã lai (©Nguyen et al 2024. Zootaxa, 5519 (4): 487–537)
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi cung cấp một tên loài mới cho các quần thể của L. subcinctus từ Trung Quốc và bao gồm một mô tả hình thái dựa trên các mẫu vật được thu thập trên khắp lục địa Đông Nam Á. Loài mới, Lycodon neomaculatus Nguyen (Nguyễn Văn Tân), Lee, Pauwels, Kennedy-Gold, Poyarkov, David & Vogel, 2024 (Rắn khuyết khoanh Đông Dương), xuất hiện nhiều ở bên ngoài miền nam Trung Quốc và sinh sống ở Đông Dương (Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam) và miền đông Myanmar. Lycodon neomaculatus sp. nov. được phân biệt với hai loài chị em: L. sealei và L. subcinctus bởi những khác biệt trong kiểu dáng màu lưng của con trưởng thành và số lượng vảy trên cơ thể (vảy bụng, vảy dưới đuôi, vảy môi trên).
Hình 4. Biến thể hình thái loài Rắn khuyết khoanh Seale (©Nguyen et al 2024. Zootaxa, 5519 (4): 487–537)
Sự phân bố của Lycodon neomaculatus sp. nov. và L. subcinctus sensu stricto (hiểu theo nghĩa hẹp) có vẻ như là loài phân bố tách biệt nhau và khu vực eo đất Kra ở miền Nam Thái Lan có thể được coi rào cản địa sinh học ngăn cách hai loài
Hình 4. Phân bố của hai loài Rắn khuyết khoanh Mã lai và Rắn khuyết khoanh Sea (©Nguyen et al 2024. Zootaxa, 5519 (4): 487–537)
Hình 5. Phân bố của loài Rắn khuyết khoanh Đông dương (©Nguyen et al 2024. Zootaxa, 5519 (4): 487–537)
Nguồn tham khảo:Nguyen TV, Lee JT, Pauwels OSG, Kennedy-Gold SR, Poyarkov NA, David P & Vogel. G (2024) The nomenclatural status of Anoplophallus maculatus Cope, 1895, with implications in the taxonomy of Lycodon subcinctus F. Boie, 1827 auctorum (Squamata: Colubridae) and the description of a new species. Zootaxa, 5519(4): 487–537. DOI: 10.11646/zootaxa.5519.4.2.
https://www.researchgate.net/publication/384768134_The_nomenclatural_status_of_Anoplophallus_maculatus_Cope_1895_its_consequences_on_the_systematics_of_Lycodon_subcinctus_auctorum_and_the_description_of_a_new_species_Squamata_Colubridae
Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Tân
Người duyệt bài: TS Phan Quốc Toản
Người đăng bài: ThS. Nguyễn Văn Tân