star twitter facebook envelope linkedin youtube alert-red alert home left-quote chevron hamburger minus plus search triangle x

Một loài rắn mới có khả năng ngụy trang: Loài bí ẩn mới thuộc phức hợp Trimeresurus kanburiensis (Reptilia: Serpentes: Viperidae) từ miền trung Thái Lan với sự thay đổi màu sắc theo giai đoạn phát triển


Chúng tôi mô tả một loài rắn lục mới từ khu vực phía bắc miền Trung Thái Lan dựa trên các bằng chứng hình thái và phân tử (2406 bp từ các gen ty thể cyt b, ND4, và 16S rRNA). Trimeresurus cryptographicus sp. nov. được phân biệt với các loài cùng chi bởi sự kết hợp của các đặc điểm hình thái sau: kích thước nhỏ, chiều dài thân-snout tối đa được biết đến là 523 mm; vảy lưng xếp thành 23(22)–21–15 hàng, có gờ nổi ở mức trung bình, ngoại trừ các hàng vảy ngoài cùng; vảy bụng 171–178; vảy dưới đuôi 57–73, tất cả đều thành cặp; mống mắt màu vàng kim ở cả hai giới; cơ thể có màu xanh cỏ tươi sáng đồng nhất với các vạch ngang răng cưa tối màu không rõ ràng ở cá thể trưởng thành (SVL 499–523 mm), trong khi cá thể sơ sinh và chưa trưởng thành (SVL 231–245 mm) có các vạch ngang răng cưa màu xám đậm nổi bật trên nền lưng màu xanh nhạt; sọc dưới ổ mắt màu xanh trắng mỏng ở con đực, không có ở con cái; sọc bụng bên màu trắng, rõ ràng, xuất hiện ở hai hàng vảy lưng đầu tiên ở cả hai giới; họng, cằm và vảy môi dưới có màu xanh lam nhạt; bề mặt bụng màu xanh vàng; đuôi có màu đỏ gạch nhạt với các đốm tối, mặt dưới đuôi có các vệt trắng_theo ThS. Nguyễn Văn Tân (Đại học Duy Tân, đồng tác giả chịu trách nhiệm chính của dự án này)

Loài mới này khác với loài có hình thái tương tự là Trimeresurus macrops bởi sự khác biệt đáng kể trong trình tự gen ty thể cytochrome b (p = 4,8%), nhưng có quan hệ gần gũi hơn với T. kuiburi (p = 1,7%). Hiện tại, loài này chỉ được biết đến từ các khu rừng nhiệt đới trên núi đá vôi ở tỉnh Phitsanulok, miền bắc miền Trung Thái Lan (khoảng 100 m so với mực nước biển). Phát hiện này một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của các khối núi đá vôi ở Đông Dương như là trung tâm địa phương của sự đa dạng và đặc hữu của hệ động vật lưỡng cư và bò sát.

Hình: Phân bố các thành viên thuộc phức hợp loài Trimeresurus kanburiensis (bao gồm các loài trước đây thuộc phức hợp T. macrops) trong khu vực Đông Dương. Lưu ý: Các ngôi sao biểu thị địa phương điển hình của từng loài.

Với việc mô tả loài mới thuộc phân chi Trimeresurus, nghiên cứu này nâng tổng số loài Trimeresurus lên 54, trong đó có 20 loài được ghi nhận tại Thái Lan, khiến quốc gia này trở thành nơi có sự đa dạng Trimeresurus phong phú nhất thế giới. Các loài này bao gồm:

  • 11 loài thuộc phân chi Trimeresurus: T. albolabris, T. cardamomensis, T. ciliaris, T. cryptographicus sp. nov., T. erythrochloris, T. guoi, T. kanburiensis, T. kraensis, T. kuiburi, T. macrops, T. purpureomaculatus, và T. venustus.
  • Hai loài thuộc phân chi Parias: T. hageni (Lidth de Jeude) và T. sumatranus (Raffles).
  • Bốn loài thuộc phân chi Popeia: T. lanna Idiiatullina, Nguyen, Pawangkhanan, Suwannapoom, Chanhome, Mirza, David, Vogel & Poyarkov; T. phuketensis Sumontha, Kunya, Pauwels, Nitikul & Punnadee; T. sabahi Regenass & Kramer; và T. tenasserimensis Idiiatullina, Nguyen, Pawangkhanan, Suwannapoom, Chanhome, Mirza, David, Vogel & Poyarkov.
  • Hai loài thuộc phân chi Viridovipera: T. gumprechti David, Vogel, Pauwels & Vidal và T. vogeli David, Vidal & Pauwels.

Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể trong thời gian gần đây, nhưng hiểu biết của chúng ta về phân loại, phân bố, phát sinh loài phân tử và độc tính của các loài rắn lục thuộc chi Trimeresurus vẫn chưa hoàn thiện. Các nghiên cứu tích hợp sâu hơn là cần thiết để cải thiện độ phân giải phát sinh loài và làm sáng tỏ các mối quan hệ tiến hóa trong chi này.

Hình: Cây phát sinh loài Maximum Likelihood (ML) của chi Trimeresurus được suy luận từ phân tích 2.402 bp của các gen ty thể cyt b, ND4, và 16S rRNA

Nguồn tham khảo:

Tác giả: ThS. Nguyễn Văn Tân

Người duyệt bài: TS Phan Quốc Toản

Người đăng bài: ThS. Nguyễn Văn Tân